Đó là: Tái tạo giống ngô biến đổi gen kháng sâu và kháng thuốc diệt cỏ; giống đu đủ kháng virus gây bệnh đốm vòng; giống lúa và giống cà chua kháng virus bằng kỹ thuật làm câm gen; phân lập các gen kháng nấm, kháng khuẩn và các yếu tố chịu hạn ở cây trồng. Tuy nhiên, để các đề tài này đưa đến được ứng dụng, nhiều thách thức còn đặt ra với các nhà khoa học và nhà quản lý của Việt Nam. Phần lớn các gen sử dụng trong các đề tài này được tạo ra ở nước ngoài, chưa được khẳng định về công nghệ cũng như hiệu quả ứng dụng. Số kinh phí cấp cho các đề tài còn hạn chế.
Trên thế giới, nhiều nước cũng chưa tự tạo ra được các giống cây trồng biến đổi gen, nhưng đã có thể ứng dụng rất hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, ví dụ như Argentina và Philippine. Đó là vì các quốc gia này đã phát triển được khung pháp lý quản lý an toàn sinh học cây trồng biến đổi gen.
Trong lĩnh vực ứng dụng CNSH trong nghiên cứu và sản xuất lương thực thực phẩm, Viện Công nghệ sinh học là một trong những đơn vị nghiên cứu đi tiên phong trong việc nhân giống bằng kỹ thuật nuôi cấy mô và chọn tạo giống bằng kỹ thuật gen. Với một số hướng nghiên cứu chính như: Nhân nhanh và bảo tồn một số giống cây trồng có giá trị; cải tiến giống cây trồng theo hướng tăng cường tính chống chịu và chất lượng bằng công nghệ tế bào; phân lập, thiết kế các gen quý như các gen kháng virus, kháng nấm, kháng khuẩn, kháng sâu hại; phối hợp cùng các đơn vị nghiên cứu trong và ngoài viện trong hướng nghiên cứu sản xuất vácxin như vác xin cúm gia cầm H5N1, vácxin tái tổ hợp sản xuất trên thực vật, ứng dụng kỹ thuật di truyền ngược tạo chủng sản xuất vácxin.
Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng Nghị định về quản lý an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen, sản phẩm của sinh vật biến đổi gen. Theo đó, việc quản lý an toàn sinh học được phân chia theo các lĩnh vực: Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, khảo, thử nghiệm, chứng nhận an toàn sinh học, sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu và quản lý thông tin…
theo baocongthuong
